Trước đây, tài sản hữu
hình vẫn được coi nhân tố chính tạo nên giá trị doanh nghiệp. Những nhân
tố này bao gồm máy móc thiết bị, đất đai, nhà cửa hoặc những tài sản
tài chính khác như các khoản phải thu và vốn đầu tư.
Các tài sản này được xác định giá trị dựa trên chi phí và giá trị
còn lại như thể hiện trên bảng cân đối kế toán. Thực ra thì thị trường
cũng nhận thức được sự hiện diện của tài sản vô hình nhưng giá trị cụ
thể của nó là không rõ ràng và chưa định lượng được. Ngay cả ngày nay,
trong quá trình xác định lợi nhuận và hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp, việc tính toán chỉ dựa trên các chỉ số như tỷ suất sinh lợi đầu
tư, tài sản, vốn chủ sở hữu chứ không hề dựa vào các chỉ số liên quan
đến tài sản vô hình. Đơn cử là chỉ số P/B (Price-to-book ratio), giá trị
của tài sản vô hình đã bị loại trừ khỏi giá trị số sách (B)
Điều này không có nghĩa rằng giới quản lý đã sai lầm khi không nhận
thức được tầm quan trọng của tài sản vô hình. Thương hiệu, công nghệ,
bằng sáng chế, nhân lực là những nhân tố sống còn cho sự thành công của
doanh nghiệp nhưng hiếm khi được xác định giá trị một cách chi tiết, nó
chỉ được tính gộp vào tổng giá trị tài sản một cách tương đối. Một số
thương hiệu lớn như Coca-Cola, Procter & Gamble, Unilever, Nestlé
luôn luôn nhận thức được tầm quan trọng của thương hiệu, minh chứng là
các công ty này lập ra hẳn chức danh Giám đốc thương hiệu. Tuy nhiên,
trên thị trường chứng khoán, các nhà đầu tư chỉ tập chung định giá dựa
trên khả năng khai thác tài sản hữu hình của doanh nghiệp.
1. Bằng chứng về giá trị của thương hiệu
giá trị của thương hiệu
Sự quan tâm đến giá trị của tài sản vô hình ngày càng tăng khi mà
khoảng cách giữa giá trị thị trường và giá trị số sách của công ty ngày
càng lớn, thể hiện cụ thể nhất là trong các vụ mua bán và sáp nhập vào
những năm cuối của thập kỷ 1980.
Ngày nay, hoàn toàn có thể nói rằng phần lớn giá trị doanh nghiệp là
nằm ở tài sản vô hình. Mối quan tâm của các cấp quản lý đối với loại
tài sản này đã gia tăng một cách đáng kể.
Thương hiệu là một tài sản vô hình đặc biệt mà trong nhiều doanh
nghiệp nó được coi là tài sản quan trọng nhất. Điều này là bởi vì những
tác động kinh tế mà thương hiệu có thể mang lại. Thương hiệu ảnh hưởng
đến lựa chọn của người tiêu dùng, của nhân viên, nhà đầu tư và cả các cơ
quan công quyền. Trong một thế giới có nhiều lựa chọn, sự ảnh hưởng này
là tối quan trọng cho thành công trong thương mại và tạo ra giá trị cho
cổ đông. Ngay cả các tổ chức phi chính phủ cũng coi thương hiệu là nhân
tố then chốt trong việc tìm kiếm các nguồn tài trợ, quyên góp cũng như
tìm kiếm ứng viên tình nguyện.
Một vài thương hiệu cũng đã chứng tỏ được tính lâu bền đến đáng kinh
ngạc. Coca-Cola được coi là thương hiệu có giá trị nhất với 118 năm
tuổi; Phần lớn các thương hiệu còn lại cũng vào khoảng 60 năm tuổi hoặc
hơn trong khi vòng đời bình quân của một doanh nghiệp theo thống kê là
vào khoảng 25 năm tuổi. Nhiều công trình nghiên cứu đã cố gắng ước
lượng mức độ đóng góp của thương hiệu vào giá trị doanh nghiệp. Một
nghiên cứu của Interbrand kết hợp với JP Morgan đã kết luận rằng thương
hiệu đóng góp vào khoảng 1/3 giá trị cho cổ đông. Công trình nghiên cứu
cũng tiết lộ rằng thương hiệu tạo ra một giá trị đáng kể cho người tiêu
dùng, doanh nghiệp hoặc cả hai.
Các công trình nghiên cứu của đại học Harvard, đại học South
Carolina và Interbrand đối với các công ty có trong bảng phân hạng
“Thương hiệu tốt nhất toàn cầu” cho thấy các công ty này có khả năng
hoạt động hiệu quả hơn nhiều các doanh nghiệp khác xét ở tất cả các khía
cạnh. Công trình cũng cho thấy rằng việc sở hữu một danh mục cổ phiếu
của các thương hiệu này là có giá trị hơn nhiều nếu đầu tư vào các
thương hiệu nằm trong bảng danh sách của Morgan Stanley’s global MSCI
và S&P 500.
Ngày nay, các công ty hàng đầu tập chung nỗ lực quản lý của họ vào
tài sản vô hình. Điển hình, Ford Motor đã giảm đáng kể cơ cấu đầu tư từ
tài sản hữu hình vào tài sản vô hình. Trong khoảng vài năm gần đây, Ford
đã đầu tư trên 12 tỷ USD để gia tăng uy tín cho những thương hiệu như
Jaguar, Aston Martin, Volvo và Land Rover. Tập đoàn điện tử Sam sung
cũng đầu tư rất mạnh vào tài sản vô hình, sẵn sàng bỏ ra 7.5% doanh thu
hàng năm để đầu tư vào Nghiên cứu phát triển và 5% cho lĩnh vực truyền
thông. Trong lĩnh vực hàng tiêu dùng, nhiều công ty sẵn sàng bỏ ra đến
10% doanh thu hàng năm cho lĩnh vực Marketing. Đó chính là những điều mà
John Akasie đã viết trong một bài báo của tạp chí Forbes:
“Chung quy lại thì đó là những vấn đề về thương hiệu, xây dựng
thương hiệu và các mối quan hệ với khách hàng. Các công ty sở hữu các
thương hiệu nổi tiếng có thể thu được lợi nhuận lớn từ các khoản đầu tư
và tăng trưởng nhanh hơn, các công ty này cũng không phải vướng bận
nhiều với việc quản lý nhà máy cũng như một khối lượng lớn nhân công
thông qua những gì mà thị trường chứng khoán đã tưởng thưởng cho họ với
chỉ số P/E cao”.
2. Việc ghi nhận giá trị thương hiệu trên bảng cân đối kế toán
ghi nhận giá trị thương hiệu trên bảng cân đối kế toán
Làn sóng mua lại thương hiệu vào cuối những năm 1980 là kết quả của
việc phần lớn hệ thống kế toán hiện hành không ghi nhận được giá trị của
thương hiệu theo khía cạnh kinh tế học. Các giao dịch châm ngòi cho
những tranh cãi xung quanh việc ghi nhận này bao gồm việc Nestlé mua lại
Rowntree, Grand Metropolitan mua lại Pillsbury, và Danone mua lại
Nabisco’s European.
Khi các công ty này mua lại một số công ty khác, chế độ kế toán hiện
hành không hề có khoản mục nào dành cho cái gọi là thương hiệu (lưu ý
rằng thương hiệu là một phần của “Goodwill” (lợi thế thương mại) bao gồm
thương hiệu, công nghệ, bằng sáng chế, nhân lực). Kết quả là các công
ty này “bị phạt” cho những gì mà họ tin tưởng là góp phần làm tăng giá
trị từ các vụ mua lại. Họ đã phải chịu đựng những khoản khấu trừ rất lớn
trực tiếp vào tài khoản thu nhập hoặc các quỹ dự trữ. Trong nhiều
trường hợp, kết quả của vụ mua bán khiến tài sản của doanh nghiệp còn
giảm thấp hơn trước khi mua.
Ở một số quốc gia như Anh, Pháp, Úc và New Zealand, việc ghi nhận
giá trị của thương hiệu như là tài sản vô hình vào bảng cân đối kế toán
của một số thương hiệu được mua lại đã thực hiện từ lâu. Điều này giúp
giải quyết phần nào những vấn đề phát sinh như đã trình bày ở trên. Tuy
nhiên, việc ghi nhận này vẫn còn nhiều điểm hạn chế, ít nhất là ở Anh và
Pháp. Các công ty ở hai quốc gia này không được khuyến khích nhưng đồng
thời cũng không bị cấm ghi nhận giá trị thương hiệu vào bảng cân đối kế
toán. Vào giữa những năm 1980, Reckitt & Colman, một công ty hoạt
động tại Anh đã ghi nhận giá trị của thương hiệu Airwick khi tiến hành
mua lại; Grand Metropolitan cũng thực hiện tương tự với thương hiệu
Smirnoff. Cùng thời điểm này, một vài hãng báo chí cũng ghi nhận giá trị
tên tờ báo của họ vào bảng cân đối kế toán.
Vào cuối những năm 1980, việc ghi nhận giá trị của thương hiệu được
mua lại gợi ý đến việc ghi nhận giá trị tự tích lũy của thương hiệu như
là một tài sản tài chính có giá trị của công ty. Vào năm 1988, Rank
Hovis McDougall (RHM), một tập đoàn (conglomerate) hoạt động chính trong
lĩnh vực thực phẩm đã bảo vệ thành công giá trị thực sự thương hiệu của
mình khi bị đối thủ là tập đoàn Goodman Fielder Wattie (GFW) nhăm nhe
thôn tính. Đây được coi là công ty tiên phong trong việc tự định giá
thương hiệu của mình chứng minh rằng thương hiệu không chỉ được định giá
khi bị mua lại mà còn có thể được định giá trong nội bộ công ty. Sau
thành công này, năm 1988, RHM ghi nhận giá trị thương hiệu của mình dưới
hai dạng là Giá trị thương hiệu được mua lại (Acquired brands) và Giá
trị thương hiệu tự tích lũy (internally generated brands) dưới khoản mục
là tài sản vô hình trong bảng cân đối kế toán.
Vào năm 1989, thị trường chứng khoán London ban hành quyết định công
nhận việc định giá thương hiệu đã được sử dụng bởi RHM bằng cách cho
phép việc ghi nhận giá trị tài sản vô hình trong quá trình định giá để
xin ý kiến chấp thuận của cổ đông. Điều này đã tạo nên một làn sóng mạnh
mẽ khi các công ty có thương hiệu tốt quyết định ghi nhận giá trị
thương hiệu của mình như là tài sản vô hình vào bảng cân đối kế toán. Ở
Anh, một số công ty này bao gồm Cadbury Schweppes, Grand Metropolitan
(khi mua lại Pillsbury với giá 5 tỷ đôla), Guinness, Ladbrokes (khi mua
lại Hilton) và United Biscuits (bao gồm cả thương hiệu Smith).
Ngày nay, nhiều công ty bao gồm L’Oréal, Gucci, Prada, và PPR đã ghi
nhận giá trị thương hiệu được mua lại của họ vào bảng cân đối kế toán.
Các công ty khác lại sử dụng giá trị của thương hiệu như là một chỉ số
thể hiện hiệu quả trong hoạt động tài chính và là công cụ hỗ trợ trong
hoạt động đầu tư.
Hiệu quả trong hoạt động tài chính và đầu tư
Nếu xét về khía cạnh liên quan đến chuẩn mực kế toán, các quốc gia
như Anh, Úc, New Zealand được coi là những quốc gia tiên phong trong
việc cho phép thương hiệu (brands) được xuất hiện trên bảng cân đối kế
toán và cung cấp chi tiết cách ghi nhận cho thương hiệu trong tài khoản
Lợi thế thương mại. Năm 1999, UK Accounting Standards Board đưa ra đạo
luật FRS 10 và 11 hướng dẫn chi tiết việc ghi nhận tài khoản Lợi thế
thương mại trên bảng cân đối kế toán. The International Accounting
Standards Board theo sau với đạo luật IAS 38. Mùa xuân năm 2002, US
Accounting Standards Board giới thiệu đạo luật FASB 141 và 142, bãi bỏ
một số quy định không phù hợp trước đây và đưa ra đạo luật hướng dẫn chi
tiết về việc ghi nhận tài khoản Lợi thế thương mại vào bảng cân đối kế
toán.
Có một số dấu hiệu cho thấy hầu hết các chuẩn mực kế toán, bao gồm
của quốc tế và của Anh cuối cùng cũng sẽ chuyển sang chuẩn mực của Mỹ.
Điều này là vì hầu hết các công ty quốc tế nếu muốn huy động vốn hoặc
hoạt động ở Mỹ phải đáp ứng các tiêu chuẩn do Mỹ đặt ra (US Generally
Accepted Accounting Principles)
Quy định chung của tất cả các chuẩn mực kế toán cho thấy Lợi thế
thương mại cần được ghi tăng hoặc ghi giảm căn cứ vào chu kỳ sống của
nó. Tuy nhiên, loại tài sản vô hình như là thương hiệu có chu kỳ sống vô
định nên không thể ghi giảm như là cách ghi khấu hao. Thay vào đó, các
công ty sẽ tiến hành định giá lại thương hiệu hàng năm và ghi nhận giá
trị của thương hiệu vào bảng cân đối kế toán căn cứ vào kết quả định
giá. Hai phương pháp được khuyến khích sử dụng là phương pháp Chiết khấu
dòng tiền (DCF) và phương pháp Tiếp cận theo giá trị thị trường (market
value approaches). Việc định giá phải được thực hiện trên từng đối
tượng (đơn vị kinh doanh, công ty con…) có doanh thu và lợi nhuận.
Các chuẩn mực kế toán liên quan đến việc ghi nhận giá trị của Lợi
thế thương mại trong các vụ mua bán công ty là một bước tiến quan trọng
trong việc cải thiện cách ghi chép giá trị của thương hiệu vào các báo
cáo tài chính. Tuy nhiên, cách ghi nhận này là vẫn chưa hiệu quả bởi vì
chỉ ghi nhận phần giá trị được mua lại và chi tiết được ghi dưới dạng
ghi chú trong tài khoản. Điều này dẫn đến sự bóp méo là giá trị của
thương hiệu ví như của McDonald thực tế vẫn không được ghi vào bảng cân
đối kế toán của công ty, cho dù giá trị của thương hiệu này chiếm đến
70% giá trị thị trường của công ty.
Ngoài ra cũng có một số vấn đề liên quan đến chất lượng định giá
thương hiệu. Một số công ty sử dụng cách tiếp cận đặc trưng trong việc
định giá thương hiệu nhưng cũng có không ít công ty sử dụng những kỹ
thuật kém phức tạp hơn và thường là đưa ra những kết quả rất không đáng
tin cậy. Tranh cãi xung quanh việc làm thế nào để đưa giá trị dài hạn
thực sự của một công ty gần hơn với giá trị ghi trên số sách rồi đây sẽ
còn tiếp tục. Tuy nhiên, nếu có một cách tiếp cận tốt hơn và các báo cáo
tài chính của công ty được cải thiện xét về khía cạnh giá trị thương
hiệu, giá trị tài sản của công ty rồi đây sẽ trở nên “vô hình” hơn.
3. Giá trị xã hội của thương hiệu
Giá trị xã hội của thương hiệu
Giá trị kinh tế của thương hiệu đối với người sở hữu nó ngày nay
được chấp nhận một cách rộng rãi nhưng giá trị xã hội của thương hiệu
vẫn là cái gì đó không rõ ràng. Liệu thương hiệu có tạo ra giá trị cho
ai khác ngoài chủ sở hữu? Và liệu giá trị mà thương hiệu tạo ra có phải
bắt nguồn phần lớn từ chi phí của xã hội? Người ta tìm thấy mối liên hệ
trực tiếp giữa thương hiệu với việc bóc lột sức lao động ở nhiều quốc
gia đang phát triển và việc đồng hóa văn hóa. Ngoài ra, thương hiệu còn
bị kết tội gây cản trở cạnh tranh và làm lu mờ tính trong sạch của hệ
thống tài chính bằng cách khuyến khích độc quyền và giới hạn sự lựa chọn
của khách hàng. Xét ở khía cạnh ngược lại, nhiều người cho rằng thương
hiệu tạo ra giá trị đáng kể cho chủ sở hữu cũng như cho xã hội bằng cách
gia tăng cạnh tranh, cải thiện chất lượng sản phẩm và làm gia tăng áp
lực cho người chủ sở hữu phải hành xử có trách nhiệm hơn với xã hội.
Cạnh tranh trên cơ sở hiệu quả hoạt động và giá cả là bản chất của
cạnh tranh về thương hiệu, điều này sẽ thúc đẩy quá trình cải tiến và
phát triển sản phẩm. Các công ty đầu tư mạnh vào việc phát triển thương
hiệu thường có danh mục sản phẩm mới nhiều hơn các công ty khác. Một
nghiên cứu được thực hiện bởi PIMS Europe cho Hiệp hội thương hiệu Châu
Âu (European Brands Association) cho thấy rằng các doanh nghiệp có
thương hiệu kém thường đưa ra ít sản phẩm mới, ít đầu tư vào lĩnh vực
nghiên cứu phát triển và các sản phẩm ít có lợi thế cạnh tranh hơn các
doanh nghiệp cùng ngành có thương hiệu tốt hơn. Thống kê cho thấy gần
một nửa công ty có thương hiệu kém hầu như không đầu tư gì cho nghiên
cứu phát triển so sánh với dưới ¼ các công ty có thương hiệu tốt. Và
trong khi 26% các nhà sản xuất có thương hiệu kém hầu như không bao giờ
giới thiệu các sản phẩm mới, con số này thấp hơn nhiều đối với các nhà
sản xuất có thương hiệu tốt hơn là 7%.
Người chủ sở hữu thương hiệu phải chịu trách nhiệm về chất lượng của
sản phẩm, dịch vụ cũng như hành vi của họ đối với xã hội. Nếu kết nối
mối liên hệ giữa thương hiệu với doanh số và giá trị cổ phiếu, chi phí
tiềm tàng của việc hành xử phi đạo đức là cao hơn rất nhiều lần so với
lợi ích nhận được khi hành xử phi đạo đức. Một số thương hiệu nổi tiếng
cũng đã từng bị cáo buộc là hành xử phi đạo đức nhưng hay thay, ngày nay
các thương hiệu này được coi như những ứng cử viên tiên phong trong
việc đưa ra các chuẩn mực đạo đức và hệ thống giám sát nội bộ. Điều này
không có nghĩa là các thương hiệu này đã thành công trong việc loại trừ
các hành vi phi đạo đức, nhưng ít nhất cũng thể hiện rằng họ sẵn sàng
đối mặt với những vấn đề này.
Các công ty càng thành thật trong việc chấp nhận khoảng cách mà họ
phải vượt qua xét về hành vi đạo đức thì sẽ càng được khách hàng tin
tưởng. Nike, một công ty đã từng bị lên án khi các nhà cung cấp của nó
bóc lột sức lao động ở các quốc gia đang phát triển, ngày nay cung cấp
báo cáo kiểm toán bên ngoài và nội dung phỏng vấn các công nhân nhà máy
trên website: www.nikebiz.com. Mối quan ngại của các công ty đa quốc gia
là có thể hiểu được, theo đó chỉ một sự giảm sút khoảng 5% doanh thu có
thể là sự mất mát giá trị thương hiệu lên đến trên 1 tỷ đôla. Như vậy,
rõ ràng việc hành xử theo chuẩn mực đạo đức có mối tương quan với những
lợi ích kinh tế của những công ty này.
Theo Nam