Tiêu thức 1: Định vị dựa trên các tiêu chí chất lượng và thành tố giá trị (Features & Attributes)
Đây là tiêu thức định vị kinh điển thường được sử dụng với nhiều chủng
loại sản phẩm khác nhau kể cả các Nhãn hiệu hàng tiêu dùng danh tiếng,
điển hình là các nhãn hiệu Unilever và của P&G. Các đặc tính sản
phẩm hay thành tố hình ảnh thương hiệu (brand attributes) được sử dụng
triệt để và nhất quán để nêu bật sự khác biệt, tốt hơn hay cả hai điều
đó.
Trong ngành xe hơi, hầu hết các hãng xe đều sử dụng tiêu thức này để
giữ cho các thương hiệu sản phẩm của mình một khoản an toàn vượt lên
trên các đối thủ cạnh tranh, hoặc nói cách khác là tạo trong tâm thức
người tiêu dùng rằng nhãn hiệu của mình vượt trội.
Volvo là một điển hình thành công với tiêu chí an toàn (safety) sử
dụng nhất quán và xuyên suốt và đạt thành công đến mức không ít các hãng
xe hơi khác cố công định vị theo safety, và dĩ nhiên không thể thành
công như người tiên phong Volvo (the nguyên tắc first-in của Al Ries
& Jack Trout).
Tiêu chí vượt trội về giá trị của sự an toàn dẫn đắt và định hướng
qúa trình nghiên cứu phát triển tạo ra những lợi ích sản phẩm xe hơi
thiên về sự an toàn cho người sử dụng mà điển hình nhất là hệ thống túi
khí.
Với chiến lược định vị sử dụng tiêu thức này, có thể tạo ra khả năng
đi trước và sở hữu một giá trị hình ảnh (brand image attribute) nhất
quán và lâu bền, nếu như tiêu chí được chọn phù hợp với xu hướng tiêu
dùng trong suốt một thời gian dài, như trường hợp safety của Volvo.
Các tiêu chí được chọn, tuy nhiên cũng thường dễ bị sao chép bởi
những thương hiệu sau. Trong sự phát triển quá nhanh của khoa học và
công nghệ, đối phương luôn có thể nhanh chóng bắt kịp và thỏa mãn cùng
một tiêu chí, từ đó làm triệt tiêu các lợi thế cạnh tranh.
Định vị dựa trên các tiêu chí chất lượng và thành tố giá trị
Tiêu thức 2: Định vị dựa trên Lợi ích sản phẩm
Tiêu thức này tương tự như tiêu thức trên, nhưng khác ở chỗ thay vì
nói đặt tính hiện hữu của sản phẩm, tiêu thức này nói về hiệu quả lợi
ích và đặc tính mà sản phẩm đó mang lại cho người tiêu dùng. Trong
trường hợp kem đánh răng có chứa fluor (tức là feature), lợi ích mang
lại là ngừa sâu răng (benefit).
Tiêu thức này thỏa mãn việc trả lời trực tiếp và câu hỏi của người
tiêu dùng là “sản phẩm (nhãn hiệu) này mang lại cho tôi lợi ích gì”.
Nếu triển khai định vị cho tiêu chí safety của Volvo, ta có thể
tuyên bố một lợi ích gần gũi hơn có thể là protection (bảo vệ). Dĩ nhiên
tuyên bố này phải đi liền với một feature hiện hữu, như là túi khí an
tòan trước vô lăng (airbag).
Đây là một tiêu thức rất hữu hiệu theo bởi tính linh họat của nó và
khả năng thỏa mãn cả yếu tố duy lý (rational) và duy cảm (emotional) của
người tiêu dùng.
Trong việc họach định chiến lược, tiêu thức này cần được đổi mới
linh họat để phù hợp từng giai đọan định vị của nhãn hiệu. Cái gọi là
unique selling point (USP) thực ra chỉ tồn tại trong từng chu kỳ ngắn
của sản phẩm, do vậy chúng ta cần phải luôn dè chừng và tiên liệu trước
những tiêu chí lợi ích mới hơn để giữ một trạng thái tiên phong định vị
những gía trị mới. Chẳng hạn bộ vi xử lý Pentium phải luôn thay đổi liên
tục về tuyên bố tốc bộ xử lý của mình, và cũng chính vì thế mà Pentium
luôn là người thành công trong nhiều năm qua.
Tiêu thức 3: Phương pháp định vị theo Vấn đề & Giải pháp (Problem & Solution)
Đây cũng là một chiêu thức kinh điển được sử dụng trong các chiến
lược định vị nhãn hiệu thành công. Cơ sở của tiêu thức định vị này là
nhắm đến việc tập trung tìm ra những vấn đề mà ngay chính cả người tiêu
dùng đôi khi cũng không nhận ra, hoặc nhìn nhận vấn đề dưới một góc độ
khác.
Oracle là điển hình trong việc áp đụng tiêu thức định vị nói trên.
Phương pháp định vị theo Vấn đề & Giải pháp
Các lĩnh vực đặc thù như Tài chính Ngân hàng, Công nghệ Thông tin và
Truyền thông áp dụng tiêu thức này. Chúng ta hãy xem tình huống ví dụ
sau đây:
Vấn đề: Điều gì xảy ra cho gia đình bạn gia đình nếu bản thân bạn gặp tai nạn bất ngờ trong cuộc sống?
Giải pháp: Hãy mua một hợp đồng bảo hiểm nhân thọ.
Thật ra tiêu thức định vị này ngày càng bộc lộ một số điểm bất lợi,
đối phương có thể nhanh chóng nắm bắt cơ hội và thậm chí đôi khi họ thực
hiện ở mức độ tốt hơn với những lợi điểm cao hơn. Rủi ro khác là đôi
khi chúng ta không thể thực hiện đúng như lời cam kết về giải pháp đã
hứa với khách hàng.
Tiêu thức 4: Tiêu thức định vị Cạnh tranh
Một tiêu thức rất quan trọng nữa đó là xây dựng định vị dựa trên
cạnh tranh. Chúng ta hãy tạm gọi đó là chiến lược định vị đối ứng. Mặc
dù trong tình thế có thể là bị động, định vị đối ứng hay định vị cạnh
tranh lại là điều bắt buộc phải làm trước khi có thể buột phải đi đến
một quyết định định vị sai lầm khác hay một quyết định bỏ cuộc.
Đa phần các định vị theo tiêu thức cạnh tranh thường hay sử dụng
phép so sánh. Chúng ta cần lưu ý phải sử dụng tiêu chí định vị so sánh
một cách thật khéo léo, và trong mọi trường hợp hầu như không được phép
nêu đích danh tên của nhãn hiệu cạnh tranh. Tuy nhiên trong hầu hết các
trường hợp chúng ta có thể sử dụng tên của một đơn vị trung gian, một
đơn vị hay một nhãn hiệu có uy tín đứng ra bảo chứng cho ưu thế cạnh
tranh định vị của mình.
Việc tuyên bố dẫn đầu hay phô trương ưu thế cạnh tranh của thương
hiệu công ty đôi khi lại không có tác dụng hay không liên quan gì đến
khả năng dẫn đầu hay ưu thế cạnh tranh của nhãn hiệu sản phẩm. Những
tiêu chí chứng minh ưu thế cạnh tranh là đáng tin cậy về mặt luận lý hay
pháp lý, nhưng đối với người tiêu dùng bình thường thì đôi khi họ không
thể hiểu hay chấp nhận được.
Như vậy thì việc tạo ra một ưu thế sản phẩm mới chỉ là một nửa của
vấn đề, phần quan trọng còn lại là sự khôn khéo chọn lưa tiêu thức định
vị cạnh tranh cho phù hợp.
Tiêu thức định vị Cạnh tranh
Tiêu thức 5: Định vị theo Giá trị và sự nổi tiếng của doanh nghiệp (Corporate Credentials or Identity)
Nhiều công ty dựa vào ưu
thế Thương hiệu Công ty để định vị nhãn hiệu sản phẩm hay đồng hóa nhãn
hiệu sản phẩm với thương hiệu công ty. Điển hình là Sony, IBM và Nestlé.
Uy tín, mức độ nhận biết và giá trị của thương hiệu mẹ là một tài sản
quý giá cho việc đính nhãn vào các nhãn hiệu con, hay bảo trợ cho các
nhãn hiệu con. Đối với người bán (the trade: đại lý, người bán lẻ) thì
chiến thuật này chứng minh được lợi thế vô song, ngay cả khi mà việc đầu
tư cho các nhãn phụ (sub-brand) chưa được thực hiện.
Tuy nhiên chiến lược này không phải là không có mặt trái. Điển hình
là trong tình huống mà các đối phương đã xác lập các nhãn hiệu sản phẩm
thực sự mạnh và đầy cá tính. Một Công ty đến sau không thể máy móc áp
dụng chiến thuật thương hiệu mẹ bao trùm, lý do dễ hiểu là một thương
hiệu lớn đã đi vào tiềm thức công chúng với những hình ảnh rất cụ thể,
mà các hình ảnh đó chưa chắc đã phù hợp với một nhãn hiệu sản phẩm rất
riêng biệt.
Một nhãn hiệu con được bảo chứng, khi gặp vấn đề sẽ ảnh hưởng ngược
lại đến các thương hiệu mẹ. Trường hợp của nhãn hiệu lốp xe hơi
Firestone, khi gặp vấn đề chất lượng, xì-căng-dan này ảnh hưởng ngay đến
uy tín thương hiệu mẹ là Bridgestone và nhãn hiệu xe Ford.
Một ví dụ về sự áp dụng tiêu thức này rất thành công tại Việt Nam là
VINAMILK. Trong những năm gần đây, bằng việc tái định vị hình ảnh
thương hiệu công ty “chất lượng quốc tế – chất lượng Vinamilk”, công ty
đã đột phá trong việc tái cấu trúc cả một hệ thống nhận diện thương hiệu
bao trùm và thay đổi hệ thống nhận diện mới bằng cả một kế họach tốn
kém hàng trăm tỷ đồng, song song đó là những giải pháp truyền thông hiệu
quả mang tính sáng tạo (điển hình là lần đầu tiên tài trợ chương trình
dự báo thời tiết). Tất cả các giải pháp tái định vị và giá cố hình ảnh
bằng hệ thống nhận diện mạnh mẽ đã làm vững chắc hơn uy tín của một
thương hiệu mạnh Việt Nam trong thời kỳ hội nhập kinh tế.
Tiêu thức 6: Định vị theo Thói quen tiêu dùng và Công dụng (Usage Occasion, Time and Application)
Chiến lược này hiệu quả đối với mong muốn làm khác đi (differentiator),
thích hợp hơn với nhãn hiệu sản phẩm dịch vụ hơn là với thương hiệu tập
đoàn và các thương hiệu lớn toàn cầu.
Phân khúc đa dạng sẽ tạo cơ hội cho tiêu thức định vị này. Người ta
dùng một sản phẩm nhưng tại những khung cảnh tiêu dùng khác nhau.
Thị trường thức uống là một ví dụ. Luôn tồn tại hai phân khúc chính
đó là on-premise: uống tại quán và off-premise: uống tại nhà. Thức uống
chocolate (Milo) thực hiện phân khúc còn chi tiết hơn rất nhiều, theo
thời gian trong ngày, tại nhà hay tại công sở, lúc nói chuyện bạn bè hay
lúc đọc sách. Còn đối với rượu Sâm banh, có thể gọi đó là một
Occasional Drink thật sự theo các tình huống mà thiết kế ra sản phẩm
(sinh nhật, giáng sinh, năm mới, đám cưới…). Ngoài ra có thể kể một dòng
sản phẩm cũng thường áp dụng chiêu thức này là sản phẩm chocolate.
Cần lưu ý rằng đối với một thương hiệu doanh nghiệp, hình ảnh về
“luôn luôn thay đổi” có đôi khi lại rất không phù hợp, mâu thuẫn với
những tiêu chí định vị hình ảnh khác ưu việt hơn, chẳng hạn như “phát
triển bền vững”, “luôn giữ lời hứa”.
Theo Nam