Modern trade đến đâu rồi?
Sự thay đổi trong bộ mặt
hệ thống bán lẻ Việt Nam những năm qua chủ yếu xoay quanh một khái niệm
modern trade (kênh phân phối hiện đại) trong giới các nhà quản trị phân
phối. Trong đó chủ yếu tập trung các kênh super market (siêu thị), chain
store và horeca.
Trong những năm qua sự
hình thành các thương hiệu super market (siêu thị bán lẻ thông thường)
trên sân nhà tạm coi là thành công đáng kể của hệ thống phân phối của
Việt Nam, với những tên tuổi như Co-op mart, Citimart, Maximart và
Fivimart, sánh ngang với Big C, Metro. Kế đến là sự hành thành các
thương hiệu chuỗi cửa hàng bán lẻ mà mức độ thành công đang còn phải bàn
nhiều. Đó là G7-mart, Shop&Go, Focomart và Hapro-mart.
Ngoài ra có thể kể đến nỗ
lực của Tập đoàn Dệt May Việt Nam Vinatex với chuỗi siêu thị Vinatex
mart. Với nỗ lực trong vài năm đến fnay Vinatex có trên 50 siêu thị trên
toàn quốc.
Tuy nhiên bức tranh tổng
thể của ngành công nghiệp phân phối & bán lẻ Việt Nam vẫn chưa hoàn
chỉnh. Bởi vì chưa có một thương hiệu chuỗi siêu thị cho department
store tức ‘siêu thị bán lẻ cao cấp’.
Siêu thị bán lẻ cao cấp
Nhầm lẫn supermarket và department store
Sự nhầm lẫn giữa
supermarket và department store là rất phổ biến. Sự nhầm lẫn này xảy ra
ngay trong giới quản trị và cả đối với những nhà hoạch định chính sách.
Trong các văn bản chính sách vẫn chưa định nghĩa rõ các mô hình bán lẻ
hiện đại; thế nào là siêu thị bán sỉ, siêu thị bán lẻ sản phẩm, siêu thị
cao cấp (tức siêu thị bán lẻ hàng hiệu), chuỗi cửa hàng, chuỗi nhà
hàng, chuỗi dịch vụ…trong khi cách phân loại siêu thị hiện nay chủ yếu
dựa vào quy mô diện tích mặt bằng.
Chúng tôi vẫn còn nhớ
cách đây 5 năm đã từng có một quyết định từ Bộ Thương mại cấm các siêu
thị sử dụng "tên thương hiệu tiếng nước ngoài’. Điều này ban đầu tưởng
chừng như là một quyết định đúng đắn nhưng thực ra lại là một sai lầm
rất cơ bản. Bởi vì về bản chất tên thương hiệu là một dạng ngôn ngữ toàn
cầu, không phải là Tiếng Anh, Tiếng Việt hay Tiếng Pháp… Trong thực tế
thì bản thân "tên thương hiệu’ đã là một lợi thế cạnh tranh rất lớn và
còn là tài sản doanh nghiệp. Do vậy lẽ dĩ nhiên là các nhà đầu tư nước
ngoài khi vào Việt Nam (như Parkson) thì họ phải sử dụng thương hiệu đã
đăng ký toàn cầu của họ.
Quá nhiều người còn nhầm
lẫn giữa super market và department store và chỉ gọi chung là "siêu thị’
và "trung tâm thương mại’. Cần lưu ý rằng ở các nước phát triển khái
niệm department store ngày nay gần như được hiểu là "brand department
store’ chứ không phải là "trung tâm thương mại theo mô hình cửa hàng
bách hóa’ theo như ấn tượng còn sót lại của chúng ta từ thời kỳ thương
nghiệp bao cấp.
Phân biệt giữa Super market và Department store:
|
Supermarket
Siêu thị phổ thông
|
Department
store
Siêu thị hàng hiệu
|
Mô hình
|
Tổ chức siêu thị theo
khu vực ngành hàng, sản phẩm;
tất cả do siêu thị điều hành.
|
Tổ chức siêu thị theo quầy
hàng của từng thương hiệu do chủ thương hiệu trực tiếp điều hành.
|
Dịch vụ
|
Khách hàng tự phục vụ.
|
Dịch vụ của chính nhãn.
|
Quản lý
|
Quản lý chung cả siêu thị.
|
Quản lý từng quầy hàng.
|
Cơ cấu Lợi nhuận
|
Sản lượng cao & tỷ suất
thấp.
|
Sản lượng thấp & tỷ
suất cao.
|
Bảng liệt kê trên đây cho
thấy sự khác biệt mang tính nguyên lý giữa hai mô hình siêu thị đó là
supermarket tổ chức kinh doanh theo "sản phẩm’ còn department store thì
tổ chức theo "thương hiệu’. Nghĩa là về nguyên tắc một không gian
department store được chia làm nhiều ô khác nhau và cho thuê theo từng
nhãn hàng. Mỗi nhãn hàng thuê mặt bằng và chịu trách nhiệm kinh doanh
"sản phẩm đúng nhãn’. Điều này cũng làm rõ sự khác biệt rất quan trọng
giữa một department store và một "trung tâm bách hóa’ hay "chợ truyền
thống’ trong đó mỗi quầy hàng tự quản lý kinh doanh trực tiếp tuy nhiên
hàng hóa thì không rõ nguồn gốc và không tuân thủ nhãn mác, kể cả bán
hàng giả hay hàng nhái.
Như vậy trong một trung
tâm như Parkson Plaza hay Soho (Bangkok) tức một department store thì tổ
chức quầy hàng bởi từng thương hiệu và chỉ kinh doanh hàng hóa thương
hiệu chính hãng.
Cũng cần lưu ý rằng một
không gian tiêu dùng cao cấp và hiện đại thường bao gồm các mô hình
thương mại hiện đại (modern trade) chẳng hạn như trong một mall hay
complex (phức hợp mua sắm) sẽ bao gồm: (1) super market (nơi bàn hàng
tiêu dùng phổ thông); (2) department store hay plaza (siêu thị hàng
hiệu); (3) khu ẩm thực; (4) khu giải trí (games); (5) khu sức khỏe (gym,
spa)…
Quanh quẩn với chuỗi cửa hàng tiện ích
Với điều kiện đặc thù của
hạ tầng đô thị Việt Nam với cấu trúc nhà cửa và đường sá đô thị phù hợp
với phương tiện xe gắn máy, không gian mua sắm và cấu trúc hệ thống bán
lẻ vẫn năng tính truyền thống và tạo ra một sức ỳ rất lớn trong việc
nâng cấp hạ tầng hệ thống bán lẻ. Chính vì vậy mà những giấc mơ theo mô
hình 7-Eleven đã hơn một lần gặp trắc trở (vd: Masan). Những nỗ lực mạnh
mẽ hơn trong 4 năm trở lại đây kể từ G7-Mart vẫn thiên về duy ý chí, và
sự thành công đang ở mức độ nhỏ nhoi cho những chuỗi quy mô nhỏ như
Shop & Go. Trong khi đó chuỗi quán cà phê, phở và nhà hàng được thị
trường tiếp nhận nồng nhiệt hơn vì chúng mang lại những lợi ích thiết
thực.
Dù sao dưới góc nhìn phân
tích xu hướng thì chuỗi cửa hàng tiện lơi vẫn là một hướng đi khả quan,
tuy nhiên nó phải song hành với sự nâng cao tính chuyên nghiệp và hiệu
quả hoạt động.
Bài học từ Parkson
Thành
lập từ năm 1987 đến nay chỉ riêng tại Malaysia Parkson đã có 30
department store (tức Parkson plaza); năm 1994 Parkson xâm nhập Trung
Quốc và đến nay đã mở được 28 điểm tại Trung Quốc, kể cả Parkson tại
thủ phủ Urumqi của vùng Tân Cương xa xôi; tương tự Parkson đã vào Việt
Nam năm 2005 và đến nay đã phát triển được 5 điểm: Parkson Saigon
Tourist; Parkson Hùng Vương; Parkson CT (Hải Phòng) và Parkson Hà Nội.
Như vậy chỉ trong vòng
hơn 20 năm thương hiệu Parkson (Malaysia) trong mảng department store đã
phát triển được trên 60 siêu thị cao cấp theo mô hình department store
và trở thành thương hiệu số 1 Châu Á trong lĩnh vực bán lẻ cao cấp hay
"bán lẻ hàng hiệu" tức brand department store mà ngày nay thường được
gọi là plaza.
Lợi thế tuyệt đối dựa
trên việc xác lập "thương hiệu bán lẻ cao cấp chuyên nghiệp" chính là
mấu chốt cơ bản cho sự thành công của thương hiệu Parkson. Chính vì vậy
mà Parkson đi đến đâu đều có thể dễ dàng nuốt chửng các mô hình tương tự
đã được bày sẵn, cụ thể như Parkson ở Lê Thánh Tôn, Quận 1 trước đây do
Saigon Tourist xây dựng và đã đi vào hoạt động. Tuy nhiên nó chỉ thực
sự khởi sắc khi sáp nhập vào tập đoàn thương hiệu Parkson, kèm thao đó
là "mối mang" do chuỗi Parkson đã được xác lập trên quy mô rộng. Các
"giá trị mềm" này cần được hiểu theo hai hướng đó là external branding
và cả internal branding. Trong đó internal branding là uy tín của thương
hiệu Parkson đã xác lập trong chuỗi cung ứng với mạng lưới nhà cung cấp
và kinh nghiệm kinh doanh với các thương hiệu hàng đầu thế giới; đó là
điều mà các "tay mơ" nhảy vào khó mà cạnh tranh nổi. Điều này cũng hoàn
toàn đúng đối với tên tuổi Imex Pan Pacific trong ngành siêu thị miễn
thuế (DFS).
Sự thành công trong chiến
lược của Parkson phản ảnh đúng hiệu quả của chiến lược marketing chuyên
nghiệp và vai trò thương hiệu trong nền kinh tế hiện đại, mà mô hình
bán lẻ cao cấp là một ví dụ điển hình.
Theo nhận xét của chúng
tôi, những điều kiện cần thiết để hình thành thương hiệu chuỗi siêu thị
cao cấp (brand department store) cho Việt Nam bao gồm:
• Xây dựng thương hiệu đẳng cấp quốc tế cho chính chuỗi siêu thị.
• Xây dựng mối quan hệ với nhà cung cấp là chủ thương hiệu cao cấp.
• Hệ thống, quy trình quản trị chuyên nghiệp.
• Chiến lược quảng bá thương hiệu của thương hiệu siêu thị.
• Có lợi thế về hạ tầng địa điểm xây dựng siêu thị.
• Kỳ vọng một thương hiệu bán lẻ đẳng cấp quốc tế
Một mô hình thương hiệu
chuỗi plaza (tức department store theo ngôn ngữ thương hiệu) điển hình
như Parkson là một bài học gần gũi nhất mà doanh nghiệp Việt Nam có thể
tham khảo. Vì vậy xem xét lại những cái tên mà doanh nghiệp Việt Nam xây
dựng cho các trung tâm bán lẻ không theo mô hình nào cả (không giống
ai) ví dụ như Giày Việt Plaza về sự thiếu chuyên nghiệp, siêu thị Satra
về sự thiếu năng động, hoặc Focomart về tính phiến diện, hoặc là sự
thiếu tầm nhìn đối với Vinatex mart.
Thương hiệu chuỗi bán lẻ
cao cấp sẽ là cầu nối hữu hiệu cho cộng đồng thương hiệu cao cấp của
Việt nam từng bước vươn ra chinh phục thị trường thế giới.
Thương hiệu chuỗi bán lẻ
cao cấp
Với tầm nhìn xa của ngành
dệt may thời trang Việt Nam định hướng vào phân khúc "trung-cao" có
nhiều cơ hội cạnh tranh so với phân khúc đại chúng của Trung Quốc. Ngành
công nghiệo dệt may Việt Nam có tiềm năng và vị thế rõ rệt để nhắm đến
chiến lược phân phối trung-cao cấp. Theo đó mô hình phân phối duy nhất
phù hợp đối với phân khúc này đó là một chuỗi siêu thị cao cấp có thương
hiệu quốc tế do Việt Nam xây dựng chẳng hạn với ý tưởng dòng thương
hiệu cao cấp Vinatex Plaza hoặc thậm chí phải là một cái tên sành điệu
hơn nữa (sánh ngang với đẳng cấp Parkson hoặc hơn) theo mô hình
department store, và lấy các thương hiệu thời trang trung-cao cấp Việt
Nam làm đối tác. Mặc dù hiện nay số lượng thương hiệu thời trang
trung-cao của Việt Nam vẫn còn hạn chế nhưng số lượng các thương hiệu
này ngày càng hình thành ngày càng nhiều, với mức độ chuyên nghiệp ngày
càng cao hơn, đó là: Vera, WoW, PT2000, NinoMaxx, San Ciero, Novelty,
NewNem, Ipa Nima, Mattana, Seven AM, ChicLand…
Một thương hiệu đẳng cấp
quốc tế cho plaza (trung tâm bán lẻ hàng hiệu cao cấp theo mô hình
department store) cần thiết phải được xây dựng một phương pháp chuyên
nghiệp: từ chiến lược định vị tổng thể, cho đến xác lập ý tưởng thương
hiệu, tên thương hiệu, bộ mặt nhận diện thương hiệu, chiến lược quảng bá
hình ảnh, quản trị hệ thống, quản trị quan hệ khách hàng, quan hệ đối
tác kinh doanh… tât cả đều được xây dựng một cách chuyên nghiệp.
Cũng cần thấy rằng chính
khái niệm "trung tâm thương mại" hiện nay được dùng như là một mỹ từ
xuất hiện trong hầu hết các dự án bất động sản đô thị. Tuy nhiên một
định nghĩa hay định vị rõ ràng với một mô thức (format hay concept cụ
thể) cho cái gọi là "trung tâm thương mại" như chúng ta vẫn thấy xuất
hiện trong rất nhiều các dự án bất động sản đô thị như hiện nay, vẫn còn
như là một điều xa lạ đối với những người đang lập dự án hay các nhà
quy hoạch đô thị.
Theo Nam